ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
TÔNG SẮC APERUIT ILLIS THIẾT LẬP CHÚA NHẬT LỜI CHÚA
1- “Người đã mở tâm trí cho các vị để các vị hiểu được những lời Thánh Kinh” (Luca 24:45). Đó là một trong những tác động cuối cùng của Vị Chúa Phục Sinh trước khi Người Thăng Thiên. Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ qui tụ lại, đã bẻ bánh với các vị và đã mở tâm trí của các vị ra để các vị hiểu được những lời Thánh Kinh. Người đã vén tỏ cho các vị, đang sợ hãi và hoang mang bối rối, thấy được ý nghĩa của mầu nhiệm vượt qua: đó là theo dự án đời đời của Chúa Cha thì Người cần phải chịu khổ và sống lại từ trong cõi chết, để mang lại lòng thống hối và ơn tha thứ tội lỗi (xem Luca 24:26.46-47). Đoạn Người hứa sai Thánh Linh là Đấng sẽ ban cho các vị quyền năng để các vị trở thành những chứng nhân của mầu nhiệm cứu độ này (xem Luca 24:49).
Mối liên hệ giữa Vị Chúa Phục Sinh, cộng đồng tín hữu và Thánh Kinh là những gì thiết yếu cho căn tính là Kitô hữu của chúng ta. Không có Chúa là Đấng mở tâm trí của chúng ta ra thì chúng ta không thể nào sâu xa hiểu được những lời Thánh Kinh. Tuy nhiên, cũng tương tự như thế, nếu không có Thánh Kinh, thì các biến cố về sứ vụ của Chúa Giêsu cũng như của Giáo Hội Người trên thế gian này vẫn bất khả thấu. Bởi thế, Thánh Giêrônimô có lý chủ trương rằng: “Vô thức về Thánh Kinh là vô thức về Chúa Kitô” (Dẫn Giải Sách Isaia, Lời Ngỏ: PL 24,17B).
2- Khi kết thúc Năm Thánh Ngoại Lệ về Lòng Thương Xót, tôi đã giành riêng “một Chúa Nhật hoàn toàn chú trọng đến lời Chúa, để cảm nhận được những gì là phong phú khôn lường được chất chứa trong cuộc đối thoại liên lỉ giữa Chúa và dân Ngài” (Misericordia et Misera, 7). Giành riêng một Chúa Nhật đặc biệt trong phụng niên cho lời Chúa là những gì giúp Giáo Hội có thể cảm nghiệm được một cách mới mẻ tác động Vị Chúa Phục Sinh mở ra cho chúng ta kho tàng lời của Người, và giúp chúng ta có thể loan truyền tính chất phong phú khôn lường của lời Người trước thế giới. Đến đây chúng ta nhớ đến giáo huấn của Thánh Ephrem như thế này: “Lạy Chúa, ai có thể hiểu được tất cả những gì là phong phú, dù chỉ một chữ, của những lời Chúa? Nó còn vượt trên cả những gì chúng con có thể hiểu được. Chúng con chẳng khác gì như kẻ khát đang uống từ mạch nguồn. Lời của Chúa có nhiều khía cạnh, như các viễn tượng của những ai nghiên cứu học hỏi lời Chúa. Chúa đã mầu sắc hóa lời của Chúa bằng những nét đẹp khác nhau, để những ai nghiên cứu học hỏi lời Chúa có thể chiêm ngắm thấy những gì tác động họ. Người đã cất giấu nơi lời của Người tất cả mọi kho tàng, để từng người chúng ta có thể thấy được một sự phong phú nơi những gì họ chiêm ngắm” (Commentary on the Diatessaron, 1, 18).
Với Bức Thư này, tôi muốn đáp ứng nhiều lời yêu cầu tôi đã nhận được từ dân Chúa đó là toàn thể Giáo Hội cùng nhắm một mục đích cử hành một Chúa Nhật Lời Chúa. Hiện nay cộng đồng Kitô hữu vẫn thường giành ra những giây phút chia sẻ về tầm quan trọng đặc biệt của lời Chúa đối với cuộc sống hằng ngày. Các Giáo Hội địa phương khác nhau đã thực hiện đầy những sáng kiến trong việc làm cho Thánh Kinh dễ dàng tiếp cận hơn cho tín hữu, trong việc gia tăng lòng biết ơn của họ đối với một tặng ân trọng đại như vậy, cũng như trong việc giúp họ hằng ngày nỗ lực hiện thực và làm chứng cho giáo huấn của lời Chúa.
Công Đồng Chung Vaticanô II đã đẩy mạnh việc tái khám phá lời Chúa, qua Hiến Chế Tín Lý Lời Chúa Dei Verbum, một văn kiện đáng được đọc và vẫn hằng thích hợp. Hiến chế này rõ ràng là đã dẫn giải về bản chất của Thánh Kinh, việc truyền đạt Thánh Kinh qua các thế hệ (Chương II), việc linh ứng Thánh Kinh (Chương III) bao gồm cả Cựu Ước lẫn Tân Ước (Chương IV và V), cùng với tầm quan trọng của Thánh Kinh đối với đời sống của Giáo Hội (Chương VI). Để giáo huấn này tăng tiến hơn, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã triệu tập một Thượng Nghị Giám Mục vào năm 2008 về “Lời Chúa trong Đời Sống và Sứ Vụ của Giáo Hội”, sau đó ngài đã ban hành Tông Huấn Verbum Domini, một giáo huấn vẫn còn là những gì cốt yếu cho các cộng đồng của chúng ta (Cf. AAS 102 [2010], 692-787). Văn kiện này đặc biệt nhấn mạnh đến tính chất diễn đạt của Lời Chúa, nhất là trong phụng vụ, nơi nổi bật tính chất bí tích chuyên biệt của Lời Chúa (Cf Verbum Domini, 56).
Bởi thế, thật là xứng hợp cho đời sống của dân chúng ta, liên lỉ được đánh dấu bằng mối liên hệ quyết liệt này với lời hằng sống, để Chúa không bao giờ mỏi mệt nói với Hiền Thê của Người, nhờ đó Vị Hiền Thê này được gia tăng trong yêu thương và nơi chứng từ trung thực.
3- Do đó mà tôi tuyên bố Chúa Nhật Thứ Ba Thường Niên được giành cho việc cử hành, học hỏi và truyền đạt lời Chúa. Chúa Nhật Lời Chúa này vì vậy sẽ là một yếu tố thích hợp của thời điểm đó trong năm, để chúng ta được phấn khích củng cố những mối liên hệ của chúng ta với dân Do Thái, và cầu nguyện cho mối hiệp nhất Kitô giáo. Đây là vấn đề không phải chỉ trùng hợp về thời gian mà thôi: việc cử hành Chúa Nhật Lời Chúa mang một giá trị đại kết, vì Thánh Kinh vạch vẽ, đối với những ai lắng nghe, con đường tiến đến mối hiệp nhật chân thực và vững vàng.
Các cộng đồng khác nhau sẽ tìm kiếm những cách thức riêng để đánh dấu Chúa Nhật này một cách long trọng nào đó. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là khi cử hành Thánh Thể, sách thánh cần phải được trân trọng tôn vinh, nhờ đó mới tập trung chú trọng của cộng đoàn tham dự vào giá trị chuẩn mực của Lời Chúa. Vào Chúa Nhật này, thật là thích đáng để đề cao việc công bố lời Chúa, cũng như nhấn mạnh đến việc tôn kính lời Chúa cần phải có trong bài giảng. Về vấn đề này, cần phải tái nỗ lực huấn luyện các phần tử tín hữu trong việc trở thành những con người công bố của lời Chúa một cách chân thực, như việc huấn luyện vẫn có trong trường hợp giúp lễ hay các thừa tác viên ngoại lệ cho Rước Lễ. Các vị mục tử cũng có thể tìm cách tặng một cuốn Thánh Kinh, hoặc 1 trong các sách Thánh Kinh, cho toàn thể cộng đồng, như cách thức cho thấy tầm quan trọng của việc học hỏi cách thức đọc, cảm nhận và cầu nguyện hằng ngày bằng Thánh Kinh, nhất là bằng việc thực hành đọc sách thánh – lectio divina.
4- Việc dân Do Thái trở về quê hương của mình sau cuộc lưu đầy ở Babylon được đánh dấu bằng việc công khai đọc sách Luật chung. Trong cuốn Nehemiah, Thánh Kinh đã cống hiến cho chúng ta một hình ảnh cảm động vào lúc bấy giờ. Dân chúng qui tụ lại ở Giêrusalem, trong khu vực trước Cửa Nước, để nghe Sách Luật. Họ đã bị phân tán ở chốn lưu đầy, nhưng bấy giờ họ thấy họ qui tụ lại “như là một” chung quanh Thánh Kinh (Neh 8:1). Dân chúng “lắng tai nghe” (Neh 8:3) đọc sách thánh, nhận thấy rằng họ khám phá ở nơi những lời của sách thánh ý nghĩa về những kinh nghiệm họ đã trải qua. Phản ứng trước việc công bố này là một trong những cảm kích cả thể đầy nước mắt: “Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc. Bấy giờ ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, nói với họ rằng: ‘Hôm nay là ngày thánh hiến cho ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc’. Sở dĩ ông nói thế là vì toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật. Ông Ét-ra còn nói với dân chúng rằng: ‘Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của ĐỨC CHÚA là thành trì bảo vệ anh em'” (Neh 8:8-10).
Những lời ấy chất chứa cả một giáo huấn lớn lao. Thánh Kinh không thể nào chỉ là gia sản của một số người; lại càng không phải là một tổng hợp các sách cho lợi ích của một thiểu số đặc biệt nào đó. Thánh Kinh, trên hết, thuộc về tất cả những ai được kêu gọi nghe sứ điệp của Thánh Kinh, và nhận biết bản thân mình nơi các lời của Thánh Kinh. Có những lúc xẩy ra khuynh hướng muốn độc chiếm sách thánh, bằng việc hạn chế sách thánh cho một số thành phần nào đó hoặc cho các nhóm ưu tuyển. Không thể như vậy được. Thánh Kinh là sách của dân Chúa, thành phần, khi nghe Thánh Kinh, chuyển từ chỗ phân tán và chia rẽ thành hiệp nhất. Lời Chúa là những gì liên hợp thành phần tín hữu và làm cho họ nên một dân duy nhất.
5- Trong mối hiệp nhất được xuất phát từ việc lắng nghe, các vị mục tử có trách nhiệm chính yếu trong việc dẫn giải Thánh Kinh, và giúp cho mọi người hiểu biết Thánh Kinh. Vì Thánh Kinh là cuốn sách của dân chúng mà những ai được kêu gọi làm thừa tác viên lời Chúa cần phải cảm thấy nhu cầu khẩn trương trong việc làm cho Thánh Kinh có thể tiếp cận với cộng đồng của mình.
Bài giảng đặc biệt cần phải mang một phần vụ đặc biệt, vì nó có “tính chất á bí tích” (Evangelii Gaudium, 142). Việc giúp cho dân chúng tiến vào sâu hơn lời Chúa, qua ngôn từ giản dị và tương xứng, sẽ giúp cho chính các vị linh mục có thể khám phá ra “vẻ đẹp của những hình ảnh được Chúa sử dụng để phấn khích việc làm lành” (ibid.). Đó là một cơ hội mục vụ không được hoang phí!
Thật vậy, đối với nhiều tín hữu chúng ta, thì đây là cơ hội duy nhất họ có để nắm bắt được vẻ đẹp của lời Chúa, và để đem lời Chúa ra áp dụng vào cuộc sống hằng ngày của họ. Bởi thế, cần phải có đủ thời gian giành cho việc soạn dọn bài giảng. Việc dẫn giải các bài sách thánh không thể nào hời hợt nông cạn. Những ai trong chúng ta là giảng viên không được giảng dài dòng có vẻ thông thái dỏm, hay lang thang đi vào những vấn đề chẳng có liên hệ gì. Khi chúng ta bỏ giờ ra cầu nguyện và suy niệm sách thánh, chúng ta có thể nói từ tận đáy lòng mình, nhờ đó mới chạm đến cõi lòng của những ai nghe chúng ta, khi chuyển đạt những gì thiết yếu có khả năng sinh hoa kết trái. Chớ gì chúng ta đừng bao giờ thôi giành giờ cho Thánh Kinh và cầu nguyện với Thánh Kinh, nhờ đó Thánh Kinh được đón nhận “không phải như là lời của loài người mà là như lời Chúa thực sự” (1 Thess 2:13).
Cả thành phần giáo lý viên nữa, trong thừa tác vụ của mình giúp dân chúng lớn lên theo đức tin của họ, cần phải cảm thấy nhu cầu khẩn trương trong việc canh tân đổi mới bản thân mình, nhờ làm quen với, và học hỏi từ, Thánh Kinh. Điều này sẽ giúp cho họ nuôi dưỡng nơi thành phần nghe họ một cuộc đối thoại thực sự với lời Chúa.
6- Trước khi gặp gỡ các môn đệ của mình, qui tụ lại ở đằng sau những cánh cửa khép kín, và trước khi mở tâm trí của các vị ra để các vị hiểu được các lời Thánh Kinh (cf. Lk 24:44-45), Vị Chúa phục sinh đã hiện ra với hai người trong các vị trên đường từ Giêrusalem về Emmau (cf. Lk 24:13-35). Trình thuật của Thánh Luca ghi nhận rằng lần hiện ra này vào chính ngày phục sinh của Người, tức Chúa Nhật. Hai người môn đệ này đang bàn bạc với nhau về các biến cố mới xẩy ra, liên quan đến cuộc khổ nạn và tử nạn của Chúa Giêsu. Cuộc hành trình của họ mang tính chất sầu thương và thất vọng trước cái chết thảm thương của Người. Họ đã hy vọng rằng Người phải là Đấng Thiên Sai giải phóng họ, thế nhưng, trái lại họ lại phải đối diện với cái tai họa thập tự giá. Chính Vị Chúa phục sinh đã nhẹ nhàng đến gần và bước đi với họ, nhưng họ không nhận ra Người (cf. v. 16). Trên đường đi, Người hỏi han họ, và khi thấy rằng họ không nắm bắt được ý nghĩa của cuộc khổ nạn và tử nạn của mình, Người đã than lên rằng: “Ôi những con người đần độn và chậm tin” (v. 25). Thế rồi, “bắt đầu từ Moisen và tất cả các tiên tri, Người đã cắt nghĩa cho họ những điều về bản thân Người trong tất cả Thánh Kinh” (v. 27). Chúa Kitô là nhà dẫn giải thánh kinh đầu tiên! Chẳng những Cựu Ước đã tiên báo những gì Người phải hoàn thành, mà chính bản thân mình, Người cũng muốn trung thực với những lời Thánh Kinh nữa, để chứng tỏ cho thấy một lịch sử cứu độ duy nhất được nên trọn nơi Chúa Kitô.
7- Như thế, Thánh Kinh, với tư cách là Sách thánh, nói về Chúa Kitô và loan báo Người như là Đấng phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang (cf. v. 26). Không phải chỉ phần nào mà là toàn bộ Thánh Kinh nói về Chúa Kitô. Tách khỏi Thánh Kinh thì cuộc tử nạn và phục sinh của Người không thể nào hiểu cho đúng được. Đó là lý do tại sao một trong những lời tuyên xưng cổ xưa nhất đã nhấn mạnh rằng “Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi của chúng ta theo lời Thánh Kinh, Người đã được mai táng, Người đã sống lại vào ngày thứ ba theo lời Thánh Kinh, và Người đã hiện ra với Phêrô” (1Cor 15:3-5). Vì khắp Thánh Kinh nói về Chúa Kitô ở mọi nơi mà Thánh Kinh giúp chúng ta có thể tin rằng cuộc tử nạn và phục sinh của Người không phải là chuyện hoang đường mà là lịch sử, và là tâm điểm cho đức tin của thành phần môn đệ của Người.
Có một liên hệ sâu xa gắn bó giữa Thánh Kinh với đức tin của tín hữu. Vì đức tin xuất phát từ việc nghe, và những gì nghe thấy là ở nơi lời của Chúa Kitô (cf Rm 10:17), thành phần tín hữu buộc phải chuyên chú lắng nghe lởi Chúa, cả trong việc cử hành phụng vụ, lẫn trong việc cầu nguyện cùng suy niệm riêng.
8- Cuộc hành trình mà Vị Chúa Phục Sinh thực hiện với các môn đệ đi về Emmau đã chấm dứt ở một bữa ăn. Người lữ khách bí mật chấp nhận lời yêu cầu tha thiết của họ: “Xin ở lại với chúng tôi, vì trời đã gần tối và ngày sắp tàn” (Luca 24:29). Các vị ngồi vào bàn, và Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh, chúc lành, bẻ ra và trao cho họ. Bấy giờ mắt của họ mở ra và họ nhận ra Người (cf v. 31).
Cảnh tượng này rõ ràng cho thấy mối liên hệ bất khả phân ly giữa Thánh Kinh và Thánh Thể. Như Công Đồng Chung Vaticanô II đã dạy: “Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như Giáo Hội tôn kính thân mình của Chúa, ở chỗ Giáo Hội không bao giờ ngưng, nhất là nơi phụng vụ, tham phần vào bánh sự sống và cống hiến bánh này cho tín hữu từ bàn duy nhất lời Chúa và mình Chúa” (Dei Verbum, 21).
Việc thường xuyên đọc Thánh Kinh và việc cử hành Thánh Thể làm cho chúng ta có thể thấy được bản thân chúng ta như thuộc về nhau. Là Kitô hữu, chúng ta là một dân duy nhất, khi thực hiện cuộc hành trình của chúng ta qua dòng lịch sử, được hỗ trợ bởi Chúa là Đấng hiện diện giữa chúng ta, nói với chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta. Ngày giành cho Thánh Kinh không được coi như là một biến cố hằng năm, mà là một biến cố suốt năm, vì chúng ta rất cần phải gia tăng kiến thức và lòng yêu chuộng của chúng ta đối với Thánh Kinh cũng như với Vị Chúa phục sinh, Đấng tiếp tục nói lời của Người và bẻ bánh trong cộng đồng tín hữu. Vì lý do này mà chúng ta cần phải khai triển một mối liên hệ chặt chẽ hơn với Thánh Kinh; bằng không, tâm can của chúng ta sẽ vẫn lạnh lùng và mắt chúng ta nhắm lại, như thể chúng ta bị bưng bít bởi quá nhiều hình thức mù tối.
Thế nên Thánh Kinh và các bí tích là những gì bất khả phân ly. Khi các bí tích được lời Chúa dẫn nhập và soi chiếu thì các bí tích càng trở nên sáng tỏ hơn đích điểm của một tiến trình nhờ đó Chúa Kitô mở tâm trí của chúng ta ra để nhận biết công cuộc cứu độ của Người. Chúng ta luôn phải nhớ rằng giáo huấn trong Sách Khải Huyền, đó là Chúa đứng ở cửa mà gõ. Nếu ai nghe được tiếng của Người mà mở cho Người, thì Người sẽ vào mà ăn với họ (cf. 3:20). Chúa Giêsu Kitô đang gõ cửa chúng ta bằng những lời này của Thánh Kinh, Nếu chúng ta nghe thấy tiếng của Người mà mở cửa tâm trí của chúng ta, thì Người sẽ tiến vào đời sống của chúng ta mà ở với chúng ta.
9- Trong Thư thứ 2 gửi cho Timôthêu, một bức thư được coi như là chúc thư thiêng liêng của ngài ở một nghĩa nào đó, Thánh Phaolô đã thôi thúc con người đồng nghiệp trung thành của ngài ấy hãy liên lỉ sử dụng Thánh Kinh. Vị Tông đồ này đã xác tín rằng: “Tất cả Thánh Kinh được Thiên Chúa linh ứng, có lợi cho việc giảng dạy, trách cứ, sửa sai và huấn luyện nên công chính” (3:16). Lời huấn dụ của Thánh Phaolô cho Timôthêu này là những gì thiết yếu cho giáo huấn của Hiến Chế công đồng Lời Chúa Dei Verbum, về một đề tài quan trọng là việc linh ứng thánh kinh, một vấn đề nhấn mạnh đến mục đích cứu độ của Thánh Kinh, chiều kích thiêng liêng của Thánh Kinh và nguyên tắc thể hiện sẵn có của Thánh Kinh.
Trước hết, khi nhắc lại lời phấn khích của Thánh Phaolô với Timôthêu, Hiến chế Lời Chúa Dei Verbum nhấn mạnh rằng “chúng ta cần phải nhìn nhận các sách Thánh Kinh đều mạnh mẽ, trung thực và không sai lầm dạy rằng chân lý mà Thiên Chúa, vì phần rỗi của chúng ta, muốn thấy được ủy thác cho Thánh Kinh” (khoản 11). Vì Thánh Kinh dạy theo chiều hướng cứu độ nhờ đức tin vào Chúa Kitô (cf. 2Tim 3:15) mà các chân lý được chất chứa trong đó đều có lợi cho phần rỗi của chúng ta. Thánh Kinh không phải là thứ tổng hợp các loại sách về lịch sử hay là một cuốn biên niên ký, nhưng hoàn toàn nhắm đến phần rỗi toàn vẹn của con người. Khung cảnh lịch sử rõ ràng của các cuốn sách Thánh Kinh không được làm cho chúng ta coi nhẹ đích điểm chính yếu của Thánh Kinh là phần rỗi của chúng ta. Hết mọi sự đều hướng đến mục đích này và đều thiết yếu cho chính bản chất của Thánh Kinh, một Thánh Kinh được hình thành như là một lịch sử cứu độ, trong đó Thiên Chúa nói năng và tác hành để gặp gỡ tất cả con người nam nữ hầu cứu họ khỏi sự dữ và sự chết.
Để đạt được mục đích cứu độ này, Thánh Kinh, bởi hoạt động của Thánh Linh, biến những ngôn từ loài người được viết ra theo kiểu cách của loài người thành lời Chúa (cf. Dei Verbum, 12). Vai trò của Thánh Linh trong Thánh Kinh là vai trò thiết yếu. Không có hoạt động này của Thần Linh thì bao giờ cũng có nguy cơ vốn chất chứa ở nơi chính bản văn. Điều này mở đường cho một thứ đọc thánh kinh có tính cách cực đoan, cần phải tránh, kẻo chúng ta phản bội tính chất linh ứng, năng động và thiêng liêng của sách thánh. Thánh Tông đồ đã nhắc nhở chúng ta rằng: “Chữ nghĩa thì giết chết, còn Thần Linh thì ban sự sống” (2Cor 3:6). Bởi vậy, Thánh Linh là Đấng làm cho Thánh Kinh trở thành lời hằng sống của Thiên Chúa, được cảm nghiệm và truyền đạt theo đức tin của dân thánh Ngài.
10- Hoạt động của Thánh Linh không chỉ liên quan đến việc hình thành Thánh Kinh; hoạt động này còn tác động nơi những ai nghe lời Chúa nữa. Những lời của các Nghị phụ Công Đồng có tính cách hướng dẫn như sau: Thánh Kinh cần phải được “đọc và dẫn giải theo ánh sáng của cùng một Thần Linh là Đấng nhờ Ngài Thánh Kinh được viết lên” (Dei Verbum, 12). Mạc khải của Thiên Chúa đạt đến chỗ viên trọn nơi Chúa Giêsu Kitô; tuy nhiên, Thánh Linh vẫn không thôi tác động. Thật sự là giảm thiểu nếu giới hạn hoạt động của Vị Thần Linh này vào việc linh ứng viết Thánh Kinh và các tác giả khác nhau của Thánh Kinh. Chúng ta cần phải tin tưởng vào hoạt động của Thánh Linh, vì Ngài tiếp tục đường lối của Ngài trong việc “linh ứng” bất cứ khi nào Giáo Hội giảng dạy Thánh Kinh, bất cứ khi nào Huấn Quyền dẫn giải Thánh Kinh một cách chân thực (cf. ibid.,10), và bất cứ khi nào mỗi một tín hữu lấy Thánh Kinh làm tiêu chuẩn cho đời sống thiêng liêng của họ. Theo chiều hướng ấy, chúng ta có thể hiểu được những lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người, khi các vị nói với Người rằng bấy giờ họ đã hiểu được ý nghĩa của các dụ ngôn Người dạy: “Bất cứ vị kinh sư nào mà được học hỏi về nước trời thì giống như một gia chủ kia biết lấy ra từ kho tàng của mình cả những gì là mới và những gì là cũ” (Mt 13:52).
11- Sau hết, Hiến chế Lời Chúa Dei Verbum làm sáng tỏ là “các lời của Thiên Chúa, được diễn tả bằng ngôn từ loài người, thì giống như lời phát biểu của loài người mọi đàng, giống như Ngôi Lời của Thiên Chúa Cha hằng hữu, khi mặc lấy nơi bản thân mình xác thịt yếu đuối của loài người, thì cũng trở nên tương tự như họ” (khoản 13). Chúng ta có thể nói rằng việc nhập thể của Lời hằng hữu là những gì làm nên và mang lại ý nghĩa cho mối liên hệ giữa lời Chúa và ngôn ngữ loài người chúng ta, nơi tất cả tính chất ngẫu nhiên về lịch sử và văn hóa của mối liên hệ này. Biến cố này phát sinh ra Truyền Thống, cũng là lời Chúa (cf. ibid., 9). Chúng ta thường có nguy cơ phân cách Thánh Kinh và Thánh Truyền, mà không hiểu rằng cả hai cùng nhau là một nguồn Mạc Khải duy nhất. Tính chất văn tự của Thánh Kinh không lấy đi bất cứ một sự gì từ sự kiện Thánh Kinh là một thứ lời hằng sống; cũng thế, Truyền Thống sống động của Giáo Hội, một truyền thống tiếp tục truyền đạt lời hằng sống đó qua các thế kỷ, từ đời nọ đến đời kia, đã lấy sách thánh làm “qui luật tối thượng cho đức tin của mình” (ibid., 21). Hơn nữa, trước khi trở thành một bản văn tự, Thánh Kinh được truyền đạt bằng lời nói, và được tồn tại nhờ đức tin của một dân tộc, một dân tộc ở giữa nhiều dân khác, đã nhìn nhận Thánh Kinh như là lịch sử của mình và là nguồn mạch làm nên căn tính của họ. Bởi vậy, đức tin Thánh Kinh dựa vào lời hằng sống chứ không phải dựa vào một cuốn sách.
12- Khi Thánh Kinh được đọc theo chiều hướng của cùng Vị Thần Linh đã linh ứng viết ra mình thì Thánh Kinh vẫn hằng là những gì mới mẻ. Cựu Ước không bao giờ cũ kỹ, một khi Cựu Ước vẫn là một phần của Tân Ước, bởi tất cả đều được biến đổi nhờ cùng Vị Thần Linh đã linh ứng viết Cựu Ước. Toàn thể bản văn sách thánh đóng vai trò ngôn sứ không phải liên quan tới tương lai mà là hiện tại của bất cứ ai được nuôi dưỡng bởi lời này. Chính Chúa Giêsu đã minh nhiên nói điều này vào lúc khởi đầu cho thừa tác vụ của Người: “Hôm nay đoạn Thánh Kinh này đã được nên trọn như quí vị nghe thấy” (Luca 4:21). Những ai kín múc của dinh dưỡng hằng ngày từ lời Chúa thì trở nên, như Chúa Giêsu, một con người hiện đại của tất cả những ai họ gặp gỡ: họ không liều mình rơi vào tình trạng nhung nhớ cằn cỗi về quá khứ, hay mơ màng về một lý tưởng vời vợi chưa tới.
Thánh Kinh hoàn thành công việc ngôn sứ của mình trước hết nơi những ai lắng nghe Thánh Kinh. Thánh Kinh mang tính chất vừa ngọt ngào vừa cay đắng. Chúng ta nhớ đến những lời của tiên tri Êzêkiên khi tuân theo lệnh của Chúa mà ăn cuộn sách thì ngài nói cho chúng ta biết rằng: “Miệng của tôi thì ngọt ngào như mật ong” (3:3). Thánh ký Gioan cũng vậy, trên đảo Patmos, đã tái diễn cảm nghiệm ăn cuộn sách của tiên tri Êzêkiên, thế nhưng còn thêm rằng: “Miệng tôi thì ngọt ngào như mật ong, nhưng khi tôi ăn vào rồi thì dạ dày của tôi cảm thấy đắng cay” (Khải Huyền 10:10).
Tính chất ngọt ngào của lời Chúa khiến chúng ta muốn chia sẻ lời Chúa với tất cả những ai chúng ta gặp gỡ trên đời này và muốn loan báo niềm hy vọng vững chắc được chất chứa nơi lời Chúa (cf. 1Pet 3:15-16). Tính chất đắng cay của lời Chúa, ngược lại, thường xuất phát từ việc chúng ta nhận thức thấy cái khó khăn liên lỉ sống lời Chúa biết bao, hay cảm nghiệm riêng tư của chúng ta khi thấy lời Chúa bị loại trừ như thể chẳng có nghĩa lý gì cho cuộc sống. Chúng ta không bao giờ được coi thường lời Chúa, trái lại, chúng ta hãy bổ dưỡng bằng lời Chúa, để nhận biết và sống trọn vẹn mối liên hệ của chúng ta với Ngài, cũng như với anh chị em của chúng ta.
13- Tuy nhiên, một thách đố khác được đặt ra bởi Thánh Kinh liên quan đến yêu thương. Lời Chúa liên lỉ nhắc nhở chúng ta về tình yêu nhân hậu của Chúa Cha, Đấng kêu gọi con cái của mình sống yêu thương. Đời sống của Chúa Giêsu đầy những thể hiện trọn hảo về tình yêu thần linh này, một tình yêu không giữ lại bất cứ cái gì, mà trọn vẹn hiến mình cho tất cả mọi người. Trong dụ ngôn về Lazaro, chúng ta thấy một giáo huấn đáng giá. Khi cả Lazarô lẫn người phú hộ qua đời, thì người phú hộ, thấy con người nghèo khổ Lazarô ở trong lòng của Abraham, thì xin sai Lazarô đến với anh chị em của hắn để cảnh báo họ hãy yêu thương tha nhân, kẻo họ cũng bị cực hình như hắn. Câu trả lời chua chát của Abraham là: “Chúng đã có Moisen và các tiên tri; chúng hãy nghe các vị” (Luca 16:29). Nghe Thánh Kinh rồi thực hành thương xót: đó là một thách đố cả thể đối với chúng ta trong đời sống. Lời Chúa có mãnh lực mở mắt chúng ta ra, và giúp chúng ta có thể loại trừ đi chủ nghĩa vị kỷ ngột ngạt và cằn cỗi, trái lại dấn thân vào con đường mới mẻ của việc chia sẻ và liên kết.
14- Một trong những giây phút quan trọng nhất nơi mối liên hệ của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người là ở trình thuật về biến cố Biến Hình. Người lên núi với Phêrô, Giacôbê và Gioan để cầu nguyện. Vị thánh ký nói cho chúng ta biết rằng dung nhan và y phục của Chúa Giêsu đã trở nên trắng xóa, có 2 người đàm đạo với Người là Moisen và Elia, tiêu biểu cho Lề Luật và các Tiên Tri; nói cách khác, tiêu biểu cho Thánh Kinh. Phản ứng của Thánh Phêrô trước cảnh tượng này là một phản ứng bàng hoàng và hân hoan: “Lạy Thày, chúng con được ở đây thật là tốt quá; xin để chúng con làm 3 lều, một cho Thày, một cho Moisen và một cho Elia” (Luca 9:33). Bấy giờ có một đám mây bao phủ các vị, và các môn đệ cảm thấy sợ hãi.
Biến cố Biến Hình nhắc nhở chúng ta về Lễ Lều Tạm, khi Ezra và Nehemiah đọc sách thánh cho dân chúng sau khi họ lưu đầy trở về. Đồng thời biến cố Biến Hình này cũng báo trước vinh quang của Chúa Giêsu, như một cách thức dọn mình cho các môn đệ trước tai họa Khổ Nạn: vinh quang thần linh này cũng được gợi lên bởi đám mây bao phủ các môn đệ như biểu hiệu của việc Thiên Chúa hiện diện. Một sự biến hình tương tự cũng xẩy ra với Thánh Kinh, một Thánh Kinh tự biến hình bất cứ khi nào Thánh Kinh nuôi dưỡng đời sống của người tín hữu. Như Tông Huấn Verbum Domini nhắc nhở chúng ta: “Trong việc tái khám phá ra mối tương giao giữa những ý nghĩa khác nhau của Thánh Kinh, thì cần phải nắm bắt được vấn đề vượt qua từ chữ nghĩa đến thần trí. Đây không phải là một cuộc vượt qua tự động, tự phát; mà là chữ nghĩa cần phải được siêu vượt hóa” (khoản 38).
15- Dọc theo con đường đón nhận lời Chúa vào cõi lòng của chúng ta, Mẹ của Chúa là Đấng hỗ trợ chúng ta. Mẹ là một vị được gọi là diễm phúc vì Mẹ đã tin vào việc hoàn tất những gì Chúa đã nói với Mẹ (cf. Luca 1:45). Mối phúc đức riêng của Mẹ Maria có trước tất cả mọi mối phúc đức được Chúa Giêsu công bố về người nghèo và những ai tham khóc, người hiền lành, những ai kiến tạo hòa bình và những ai bị bách hại, vì nó là điều kiện cần thiết cho hết mọi thứ phúc đức khác. Người nghèo không được chúc phúc vì họ nghèo; họ được chúc phúc nếu, như Mẹ Maria, họ tin vào việc hoàn trọn lời Chúa. Thánh Âu Quốc Tinh, một đại môn đệ của Thánh Kinh và là vị sư phụ về Thánh Kinh đã từng viết rằng: “Có người ở giữa đám đông đã cảm kích kêu lên: ‘Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Ngài’, và Chúa Giêsu đã trả lời: ‘Đúng hơn, phúc cho những ai nghe lời Chúa mà giữ lấy’. Người như thể nói rằng: Mẹ của tôi, vị mà chị đã khen là có phúc, thật sự là diễm phúc, vì Mẹ đã giữ lời Chúa. Không phải vì nơi Mẹ Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, mà vì Mẹ giữ chính lời Chúa đã tạo dựng nên Mẹ, và là lời đã hóa thành nhục thể trong cung dạ của Mẹ” (Tractates on the Gospel of John, 10, 3).
Chớ gì Chúa Nhật Lời Chúa giúp cho dân Ngài gia tăng mối thân tình đạo hạnh và nghĩa thiết với Thánh Kinh. Vì như vị tác giả sách thánh đã dạy: “Lời này rất gần với anh em: Lời ấy ở trong miệng của anh em và ở trong lòng của anh em để anh em tuân giữ” (Dt 30:14).
Ban hành tại Roma, ở Đền Thờ Thánh Gioan Laterano, ngày 30/9/2019, Lễ Nhớ Thánh Giêrônimô, kỷ niệm 1600 năm ngày ngài qua đời.
GH Phanxicô
http://w2.vatican.va/content/francesco/en/motu_proprio/documents/papa-francesco-motu-proprio-20190930_aperuit-illis.html
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề